CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA

LAMA THUBTEN YESHE.

Bản dịch Việt : Kiến Không
Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 1999

PHẦN 1
BÌNH GIẢNG CHÍNH

QUY Y VÀ PHÁT BỒ ĐỀ TÂM

Mãi mãi con xin quy y Phật, Pháp, Tăng và Tăng đoàn của ba thừa, các daka và dakini của yoga mật chú, các thánh anh hùng, chư thiên, các vị Bồ tát và đặc biệt là vị Thầy của tôi.

“Thừa” là cách chúng ta dịch tiếng Sanskrit “yana.” Nghĩa tổng quát của nó chỉ ra rằng một số hành vi nhất định sẽ chắc chắn nâng tâm thức của bạn lên một tầng lớp cao hơn. Chẳng hạn, nếu bạn làm tăng trưởng Bồ đề tâm và tu tập sáu Ba la mật bạn chắc chắn đạt tới giác ngộ. Đại thừa sẽ đưa bạn từ lúc bắt đầu – tức là phát Bồ đề tâm – thông qua sáu Ba la mật và thập địa Bồ tát để tới đích tức là giác ngộ. Nếu bạn bắt đầu một cách vẹn toàn và hành động đúng đắn thì “Thừa” của bạn chắc chắn đưa bạn đến đích mong ước. “Thừa – Yana” cũng bao hàm nghĩa “con đường” : con đường đúng sẽ dẫn dắt bạn tới được nơi đúng. Nếu, vì vô minh, bạn đi theo con đường lầm lạc thì bạn sẽ chẳng được gì cả. Ba thừa Phật giáo là gồm hai Tiểu thừa (Hinayana) và một Đại thừa (Mahayana) và chúng ta phải quy y cả Tăng

MỤC LỤC

PHẦN 1: BÌNH GIẢNG CHÍNH

  1. Tại sao và như thế nào chúng ta phải tịnh hóa
    . Bốn sức mạnh đối trị
    . Nghiệp   
  2. Quy y 
    . Quy y và phát Bồ đề tâm  
    . Quán tưởng đối tượng quy y  
    . Ba phương pháp quy y  
  3. QUY Y BÊN TRONG VÀ THIỀN ĐỊNH VỀ TÁNH KHÔNG
    . Sự thấu hiểu về tánh Không  
    . Phát Bồ đề tâm  
    . Thiền định “cái bình” : Bài tập thở chín vòng  
  4. PHƯƠNG PHÁP YOGA THỰC SỰ
    . Quán tưởng ban đầu  
    . Cúng dường Heruka Vajrasattva  
    . Quán đảnh nhập môn  
    . Cúng dường và ca tụng Heruka Vajrasattva
  5. Sự tịnh hóa 
    . Trì chú  

  6. Những thực hành kết thúc 

đoàn của ba thừa. Ngay cả khi chúng ta đang theo Đại thừa, và đặc biệt là đang theo yoga mật thừa, thì chúng ta cũng đừng nên tự mãn cho rằng : “Tôi là người của Đại thừa, tôi không cần quy y Tăng đoàn Tiểu thừa.” Mặc dù các vị A la hán Tiểu thừa vẫn còn một ít chấp trước vào sự giải thoát của bản thân các ngài, nhưng các ngài đã thoát khỏi cái ngã với sự chứng nhập trọn vẹn tánh Không và có thể dẫn dắt chúng ta thoát khỏi luân hồi sanh tử. Bởi thế, chúng ta phải quy y tất cả Tăng đoàn mà không có sự phân biệt. Các lama Tây Tạng không phát khởi ra Tiểu thừa hay Đại thừa. Chính Đức Thế Tôn tìm ra hai trường phái Phật Pháp này, và hai trường phái này đã có mặt rất lâu trước khi giáo pháp được truyền bá đến Tây Tạng. Một số người cho rằng Đức Phật đã giảng Pháp bằng tiếng Pali nên các kinh ghi chép lại bằng ngôn ngữ khác là sai lệch. Một số người khác cũng cho rằng Đức Phật đã giảng tiếng Sanskrit, và các kinh bằng tiếng Pali là sai. Cả hai ý kiến này đều nhầm lẫn. Khi Pháp được truyền tới các quốc gia khác, các hành giả đã chứng ngộ vẫn giữ nguyên cốt lõi của giáo Pháp khi họ dịch các lời giảng sao cho thích nghi với tâm của con người trong nước họ, việc làm này chỉ nhằm mục đích giúp cho sự truyền đạt được rõ ràng mà thôi. Sau rốt, có sự khác biệt lớn lao giữa người Tây Tạng ở vùng núi tuyết và người Ấn Độ ở vùng đòng bằng nóng ẩm, cho nên bạn cần dự kiến về một số thay đổi trong phương pháp diễn đạt giáo Pháp khi được truyền từ nơi này đến nơi khác.

Có một lần, một vị vua và là đệ tử của đức Phật đã có một giấc mơ. Trong giấc mơ đó có mười tám người tranh nhau một cây vải, ai cũng tranh dành riêng cho mình. Cuối cùng mỗi người lấy được cây vải nguyên vẹn riêng. Thức dậy nhà vua đến kể cho đức Phật nghe và hỏi Phật ý nghĩa của giấc mơ. Đức Phật bảo nhà vua rằng cây vải tượng trưng cho giáo Pháp của Ngài và sau khi Đức Phật nhập diệt, mười tám trường phái với sự thể hiện khác nhau đôi chút từ giáo pháp, sẽ phát triển đi các nơi. Việc mỗi người nhận được trọn vẹn cây vải cho riêng mình có nghĩa rằng mỗi trường phái đó sẽ chứa đựng một con đường trọn vẹn đúng đắn để đưa đến giải thoát. Như vậy Đức Phật đã tiên đoán việc thành lập mười tám trường phái Tiểu thừa.

Theravada là một trong mười tám trường phái đó. Một số tín đồ Tiểu thừa cảm thấy bị lăng nhục khi gọi họ là “Tiểu thừa,” họ cương quyết đòi được gọi là “người theo phái Thera-vada” (điều này không có ý nghĩa bởi vì chỉ là một trường phái, Theravada không chứa đựng được toàn bộ triết học của Tiểu thừa, như vậy hai từ Theravada và Tiểu thừa không được tương đương với nhau). Và rồi thì có một số người khác mà cái “Ta” của họ trương lớn lên khi họ tự cho mình là người “Đại thừa.” Chính những phản ứng rất nhị nguyên này bắt nguồn từ vô minh và hoàn toàn đi ngược lại với sự an lạc nội tại của trí huệ của Pháp.

Sự khác biệt chủ yếu giữa “người Tiểu thừa” và “người Đại thừa” chính là ở tâm trạng của họ. Sự quan tâm chính của đệ tử Tiểu thừa là sự giải thoát của riêng họ ; và sự quan tâm của đệ tử Đại thừa là sự giải thoát của tất cả chúng sanh hữu tình. Một số người cảm thấy rằng những người mặc áo tăng vàng là Tiểu thừa, và áo tăng màu đỏ là Đại thừa, sự phân biệt phiến diện như vậy thật sự sai lầm. Bất cứ người nào bất kể họ mặc áo màu gì, nhưng nếu luôn luôn nhiệt tình với lòng cương quyết dẫn dắt tất cả chúng sanh hữu tình đến bờ giác ngộ tối thượng bằng chính bản thân mình, và không hề nghĩ đến việc giải thoát cho riêng mình mà thôi, thì người đó là “người Đại thừa.” Còn nếu một người nào dù mặc áo tăng đỏ, nhưng lúc nào cũng chìm đắm vào sự quán chiếu khổ đau, mê lầm của vòng luân hồi sanh tử đang hiện hữu, họ chỉ có một động cơ duy nhất là ước ao giải thoát riêng mình và không nghĩ tới những khó khăn của chúng sanh hữu tình, thì người đó là “người Tiểu thừa.”

Chúng ta quy y các Tăng đoàn Tiểu thừa và Đại thừa, các daka và dakini, các anh hùng, các chư thiên, các vị Bồ tát – tất cả các vị đã trong giai đoạn thành tựu của tantra yoga tối thượng. Trong số đó có vị có một dáng vẻ an bình, số khác có vẻ hung nộ. Các vị Bồ tát cũng hiển lộ nét hung dữ. Bạn đừng nghĩ rằng Bồ tát luôn luôn phải có nét dáng an lành. Ngay cả ở vị sơ địa trong thập địa Bồ tát – thường được gọi là “Địa Hoan Hỷ – Joyous One,” các vị Bồ tát cùng lúc biểu lộ trong một trăm thân khác nhau. Với các thân này, các Vị có thể giảng dạy Pháp trực tiếp từ các báo thân của một trăm vị Phật, hay chuyển thành một trăm hóa thân khác nhau cho lợi lạc của chúng sanh hữu tình. Trong quá trình từ sơ địa đến thập địa Bồ tát, oai lực của các ngài ở mỗi địa tăng lên mười lần, cho nên các hạnh của các ngài ngoài sức hiểu biết của chúng ta. Do vậy các vị Bồ tát hiển lộ trong hình ảnh các thiện thần, hung thần, và vân vân… và chúng ta quy y với các Ngài.

Thật vậy, các vị Bồ tát có thể xuất hiện như người Tây phương, người Đông phương, người da màu, người da trắng, như người Thiên Chúa giáo, người đạo Hồi, hay Do Thái giáo – trong bất kỳ hình dáng nào cũng được. Ngày nay rất nhiều người tự coi là có tín ngưỡng nhưng có tâm chật hẹp. Họ không thể chịu sự hướng dẫn tâm linh đối với một vị Thầy có dòng giống, màu da, chủng tộc hay quốc tịch khác với họ. Khi họ tự đặt mình đứng về phía với một vị Thầy riêng biệt của họ, thì họ trở nên cục bộ, họ tin rằng các vị Thầy khác cùng với các đệ tử của các ngài là xấu. Tôi gọi cái này là “Chủ nghĩa bổn sư.” Điều này rất lệch lạc. Đó là kiểu quy y theo lối “nhị nguyên.” Điều này không phải là cách quy y của người Phật tử.

Một số người tự cho là thầy (guru), họ tuyên bố rằng họ là người Thầy số một, người thầy duy nhất và đương nhiên các đệ tử tin vào điều đó. Theo đà này, tôn giáo mà họ đang thuyết giảng lẽ ra là con đường đưa đến giải thoát thì lại đang làm “ngạt thở” các đệ tử của họ, và các đệ tử đó càng lúc càng thiển cận, dẫn tới sự cuồng tín. Tốt hơn là không có tín ngưỡng còn hơn là thành ra như vậy. Ít nhất người không có tín ngưỡng sẽ không có quan điểm cực đoan như thế, đối với họ chỉ đơn giản làm người cũng đủ rồi.

Chúng ta quy y với chư Phật chư Bồ tát mười phương, với bất kỳ ai đã chứng ngộ tánh Không mà không cần biết màu da, quốc tịch dòng giống của họ. Hãy nhớ rằng, một vị sơ địa Bồ tát có thể là một người nam, người nữ Phi châu, một người chăn lạc đà ở Á-rập Xê Út, thậm chí có thể là một người khủng bố, họ đóng vai trò này để phục vụ cho những người khác tốt hơn.

Cuối cùng, và đặc biệt trong lời kinh cầu nguyện, chúng ta cũng quy y với vị Thầy của chúng ta, nhất là với vị thầy gốc, người đã chỉ cho ta con đường an lạc đưa tới sự thực chứng giác ngộ vĩnh cửu. Hãy luôn luôn nhớ rằng vị thầy của bạn với Heruka Vajrasattva là một. Lob-pošn có nghĩa là người đã chỉ cho chúng ta thấy con đường đúng và dẫn dắt chúng ta trên con đường đó, uốn nắn cho đúng những hành vi thân, khẩu, ý của chúng ta, đưa chúng ta tránh xa được những việc làm vô minh, mê muội. Người có thể đưa chúng ta đến giác ngộ ngay trong đời này, và thậm chí có thể trong ba năm. Hãy gợi nhớ đến sự tử tế không ngờ được của người, và chúng ta hãy quy y với người mãi mãi.

Cách quán tưởng chúng ta áp dụng khi quy y như sau đây : người cha ở bên phải của bạn, người mẹ ở bên trái, kẻ hận thù nhất thì ở trước mặt. Người bạn ưu ái nhất, người mà bạn thân cận nhất thì ở phía sau. Tất cả chúng sanh hữu tình ở mọi hướng xung quanh bạn.

Cách quán tưởng này là một ví dụ tốt của quan điểm tâm lý học Đại thừa. Nếu có ai chợt hỏi bạn muốn đặt để người bạn tốt nhất ở đâu, bạn sẽ tự nhiên nói rằng : “Ồ ! ở đằng trước mặt tôi” ; và dĩ nhiên bạn sẽ thích đặt để kẻ thù ở sau lưng, ngoài tầm mắt. Ngược lại, khi quy y chúng ta đặt kẻ thù ở trước mặt chúng ta. Hãy nhìn vào kẻ thù đó, và bằng sự chân thành, chánh trực bạn hãy xét nét cuộc đời của họ. Hãy nghĩ đến những vấn đề mà cái tâm lăng xăng của bạn đã gây ra và rồi bạn nhận thức được rằng kẻ thù cũng ở trong một tình huống đúng y như vậy. Hãy phân tích cái cách mà bạn cảm thụ đối với người kẻ thù đó. “Tôi cho rằng ông ta – kẻ thù – là kẻ tồi tệ nhất trên thế gian này nhưng những vấn đề của ông ấy cũng giống như của tôi. Tại sao tôi phải nổi sân mỗi khi thấy gương mặt ông ta ? Cái điều sai lầm cốt lõi của ông ấy là tâm ông ấy đã mê muội ôm chặt cái ngã. Nếu tôi giận cái gì thì đó phải là cái mà tôi đáng giận. Đằng này đối với những tri giác giác quan của tôi thì tâm mê lầm của ông ấy là một cái gì vô hình, không thấy được, vậy tại sao tôi lại phản ứng (nổi sân) với hình tướng vật chất của ông ấy. Cái thân, cái mặt của ông ấy, không gì khác hơn, chỉ là “tay sai” của tâm bất thiện của ông ấy. Chính cái tâm bất thiện này là nguồn gốc của mọi thứ mà khiến tôi không thích ông ấy. Cầu cho ông ta nhận ra được điều này, tịnh hóa sự mê muội của ông ta một cách trọn vẹn và có được những chứng ngộ hoàn hảo.”

Như thế, bạn hãy nên phát tâm thương yêu kẻ thù vô cùng và với cái tâm như vậy, bạn hãy quy y. Đây là cách quy y tốt nhất.

Việc quy y như kiểu này chính là một cách giải quyết được các vấn đề vô minh, tham luyến, sân hận. Nếu không thì rất bất lợi cho bạn vì bạn sẽ quá lo lắng về các vấn đề đó, và việc bạn quy y sẽ đơn thuần là một phương pháp mới để tự mình tăng thêm sự tham luyến dính mắc cũng như sự quan tâm cho việc chứng ngộ của riêng mình. Bạn sẽ có thể nói bạn đang tu tập Pháp, nhưng Pháp mà bạn đang tu tập chẳng phải là gì cả ngoài việc làm tăng thêm sự tham luyến của bạn. Phật pháp lẽ ra phải là cách giải quyết các vấn đề của mình, nhưng bởi vì thái độ nói trên của bạn, trí huệ Pháp lại trở thành một cái gì sở hữu mang tính cách vật chất. Bây giờ nếu có ai nói “Pháp của ông là phân” thì cái ngã của bạn sẽ nổi cơn thịnh nộ.

Trí huệ là trí huệ. Tại sao bạn lại chịu khó bực mình khi người đang mê muội bảo bạn rằng Pháp là phân hay gọi vị thầy của bạn là quỷ sứ ? Không thể nào chỉ đơn giản bằng lời nói mà có thể làm cho Pháp hay vị thầy thành ra phân hay quỷ sứ được. Do vậy bạn hãy cẩn trọng. Nếu bạn bực mình nổi giận khi ai đó phê phán việc tu hành của bạn, thì như vậy bạn đã biến trí huệ Pháp của bạn thành ra một cái gì mang tính vật chất. Nhận định này không chỉ áp dụng riêng cho đạo Phật mà kể cả các tôn giáo khác nữa. Nếu các đồ đệ của một tín ngưỡng nào nổi giận vì có người bảo tôn giáo của họ không tốt, và họ muốn đóng cọc hành hình kẻ phê bình đó, như vậy những quan niệm của họ hoàn toàn lầm lạc. Ngay giờ đây bạn hãy coi xét lại cái cách bạn phản ứng khi có người lăng nhục bạn – bởi vì một khi bạn nổi cơn thịnh nộ thì có coi xét phản ứng cũng đã quá trễ rồi.

Việc quán tưởng những chúng sanh chung quanh ta là mẹ khi bạn phát tâm quy y, là một phương tiện mạnh mẽ để vượt qua được sự chú tâm quá đáng đối với những khổ đau riêng của mình. Nhiều người trong chúng ta bị ám ảnh quá nhiều đối với những khổ đau riêng. Chúng ta đã không thể quên chúng được và chúng ta không bao giờ nghĩ tới những gì mà các người khác đang kinh qua. Cuối cùng chúng ta nhận ra rằng những người khác cũng có những khổ đau y như chúng ta có, lúc đó chúng ta mới bắt đầu suy nghĩ rằng : “Rốt lại tôi đâu phải là người xấu số nhất trên đời. Tôi cũng không phải một mình trong khổ đau. Có nhiều người giống như tôi vậy. Nên tôi phải phát sanh lòng đại bi yêu thương họ y như tôi yêu thương tôi.”

Bằng cách nào mà Phật, Pháp và Tăng già của ba thừa cứu được chúng ta khỏi mê lầm của vòng luân hồi sinh diệt ? Điều này tùy thuộc vào thái độ tâm linh của chúng ta. Chúng ta phải hiểu thấu đáo bản chất sự hiện diện của vòng luân hồi sanh tử của chúng ta, đồng thời chúng ta cũng phải biết đến năng lực và khả năng lớn lao mà các chư Phật, Thánh Tăng đã có để dắt dẫn chúng ta ra khỏi vòng sanh tử. “Tôi thật là vô tích sự. Mặc dù tôi có đủ thông minh để làm cho cuộc sống của tôi tiện nghi, hưởng thụ xứng đáng, những tôi không có đủ hiểu biết, trí huệ để vượt qua được sức lôi kéo hấp dẫn của tâm tham ái của tôi đối với những cảm xúc vui sướng mà nó đã cột chặt tôi lại với vòng luân hồi sanh tử. Tôi không có cách nào để tự giải phóng khỏi sự ràng buộc đó. Nhưng các chư Phật, Thánh Tăng thực sự có thể dẫn dắt tôi. Các Ngài có phương tiện, giải pháp, ánh sáng trí huệ để khiến tôi xua tan mê lầm, đó là chìa khóa mở rộng tâm tôi sao cho trí huệ thấu biết từ đó phát sanh. Tôi đã quá mệt mỏi vì luôn bị cuốn hút trong vòng sanh diệt bất tận mà không kiềm chế được. Chư Phật đã chỉ cho thấy phương pháp toàn vẹn đưa tôi và các người khác nữa ra khỏi mê lầm. Và Pháp trí huệ là con đường Đạo đúng đắn, thực tế, một sự chấm dứt khổ đau đúng đắn.”

Tôi biết chắc chắn, có nhiều mức độ của ý nghĩa trong từ “Pháp” mà bạn đã học hỏi khi nghiên cứu kinh điển. Khi bạn quy y Pháp, đối tượng quy y thực sự của bạn là trí huệ thấu hiểu đầy đủ bản tánh tuyệt đối (sự thật rốt ráo) và là một với tánh Không một cách trọn vẹn, hoàn toàn thoát khỏi quan điểm nhị nguyên. Chúng ta hiện nói về Pháp, nhưng Pháp là gì ? Pháp là trí huệ – Trí huệ Pháp. Tuy nhiên, cần có nhiều thời gian và tích lũy nhiều chứng ngộ để có được trí huệ vô thượng. Chúng ta phải làm điều này. Để chạy cho tốt, một cái xe hơi phải tùy thuộc vào nhiều bộ phận và không có một bộ phận nào tự riêng một mình nó là một cái xe hoàn chỉnh. Tương tự như vậy, trí huệ toàn bích kết hợp bởi rất nhiều loại khác nhau của sự thấu biết, và mỗi sự thấu biết đó là một bộ phận hợp nhất của con đường Trí Huệ.

Cho nên bạn có thể hiểu rằng có sự khác biệt giữa Pháp quy y mà chúng ta đang nói tới ở đây – Chính là Trí huệ toàn bích, nó thấu biết đầy đủ sự thật rốt ráo là tánh Không, và Pháp thường dùng mà chúng ta từng thảo luận – tức là giải pháp mang tính trí huệ để giải quyết các vấn đề tâm linh. Trí huệ toàn bích là đối tượng quy y rốt ráo. Nhiều đệ tử của tôi than phiền rằng họ đã uổng công chờ đợi để được nghe tôi dạy về tánh Không. Nhưng bạn thấy đấy – đây này, tôi đã và đang dạy nó không lúc nào ngừng. Chỉ có điều… tôi đã không gọi nó là tánh Không như : “Các bạn nghe đây, tôi sẽ chỉ cho bạn thấy tánh Không ! Ngày mai các bạn sẽ đạt tới giác ngộ !” Tôi đã và đang ngụy trang nó dưới dạng những từ đơn giản hơn.

Chư Phật đã chỉ cho bạn thấy được Pháp và bằng cách nào bạn thâm nhập Pháp để đạt tới thực sự chấm dứt khổ đau. Thông qua việc tu tập Pháp bạn trở thành vị Phật. Tăng đoàn giúp bạn tạo ra những điều kiện đúng đắn cho việc tu tập, tạo sự đảm bảo để bạn tịnh hóa các điều bất thiện và thật sự chấm dứt khổ đau. Như tôi đã nói trước đây, các vị Bồ tát biểu lộ dưới vô số cách khác nhau để nhắm tới một mục đích duy nhất là trợ giúp bạn trong tu tập. Khi các vị phô bày hình ảnh hung dữ, chúng ta đừng nên bực mình khó chịu hay nghĩ rằng các vị không còn từ bi với chúng ta nữa. Thay vì vậy chúng ta nên cho rằng : “Vị Bồ tát này đang chỉ cho tôi thấy được rằng khi tôi giận dữ, trông gương mặt tôi kỳ cục xấu xa như thế nào. Nếu trước đây tôi chưa biết giận dữ, thì tôi không bao giờ biết có gương mặt như vậy. Tôi nên biết ơn sự tử tế của ngài.” Bất cứ khi nào có ai đó giận chúng ta, chúng ta nên nghĩ rằng ông ấy hay bà ấy là biểu lộ của một vị Bồ tát dạy chúng ta đừng nên giận dữ. Tương tự như vậy, bất cứ khi nào có ai đó xung quanh ta trông rất an lạc, chúng ta nên nghĩ, với niềm vui, rằng người này cũng là một vị Bồ tát đang chỉ cho chúng ta thấy rằng những người khác sẽ vui sướng biết bao khi chúng ta cư xử tốt với họ.

Chắc chắn bạn đã có nhận xét rằng bất chợt vào một thời điểm nào đấy bạn cảm thấy vui sướng gặp một người này nhưng cảm thấy khó chịu ngay tức thì khi thấy người kia. Đấy chính là cái nghiệp lực của bạn nó đang “làm việc.” Ở trong bạn, có một năng lực mà nó xui khiến cho điều này xảy ra. Gần như bạn không thể làm được gì về việc này. Một cách tự phát, những người đẹp trai hay xinh gái được người khác đối xử tốt ở mọi nơi, nhưng những người xấu xí thì bị cư xử tệ. Đây là nghiệp của họ, rất khó thay đổi cho dù họ rất muốn thay đổi. Người Tây phương sẽ cho chúng ta sự giải thích bằng khoa học như thế nào cho hiện tượng này ? Chính nghiệp đã làm cho cuộc đời của các bạn khó khăn, và cũng bởi nghiệp làm cho cuộc đời thoải mái dễ chịu.

Tuy nhiên, không phải vì vậy mà nghiệp cố định bất biến. Nghiệp là một hiện tượng thay đổi. Tất cả đều như nhau thôi cho đến khi năng lực của một nghiệp nào đó đã hết, và mỗi người phải chịu đựng tình huống riêng của mình.

Hãy lấy ví dụ con chó “Gomchen” của tu viện. Tất cả chúng ta đều yêu thương nó. Đức Phật yêu thương nó. Đức Chúa cũng yêu thương nó. Nhưng cho dù tất cả đều yêu thương nhưng không ai có thể giao thiệp, “nói chuyện” được với con chó đó để chỉ cho nó thấy được bản tánh tuyệt đối, tức là tánh Không. Con chó không thể nào có khả năng giao tiếp được với chúng ta, cho đến khi nào thân của nó được biến đổi thành một cái thân khác thích hợp. Đó là nghiệp. Tất cả chúng sanh trong luân hồi sanh tử phải chấp nhận những gì họ đang kinh qua cho đến khi năng lực của tập nghiệp ở phía sau sự kiện đang kinh qua đó được tiêu trừ. Mọi sự trong cuộc sống của bạn tùy thuộc loại năng lực này. Khi một năng lực tác nhân của một hành vi nhất định được tiêu trừ hết thì nó không còn đưa đến hậu quả nữa. Bạn hãy nghiên cứu cuộc đời của bạn và bạn sẽ hiểu được nghiệp. Mỗi một chúng sanh hữu tình đều sống theo cái cách họ suy nghĩ, theo trình độ năng lực nhận thức, thái độ sống, và hoàn cảnh chung quanh. Đó, tất cả, là nghiệp. Tôi dùng rất nhiều lần từ “nghiệp” ở đây. Tôi hy vọng các bạn hiểu tôi muốn nói cái gì.

Kết luận lại, chư Phật chỉ cho bạn thấy con đường chân chánh và sự chấm dứt thật sự, đó tức là Pháp giải thoát bạn khỏi luân hồi sanh tử. Và chư Phật đã cố gắng làm cho bạn nhận ra được rằng các hành vi đúng đắn của bạn phù hợp với đạo là những gì thực sự dẫn dắt cho bạn. Điều này có nghĩa chính bạn chứ không phải chư Phật, có trách nhiệm tối hậu cho việc giải thoát của bạn. Bạn hãy thấu hiểu rõ ràng điều này.

Tăng đoàn ở cả ba thừa, bao gồm các vị hộ pháp như Mahakala và Kalarupa là những người bạn của bạn, các chư vị sẽ giúp bạn bất cứ khi nào có thể được. Do vậy, bạn nên hiểu tăng đoàn có nghĩa như thế nào. Đa số người ta nghĩ rằng Tăng đoàn là từ dành riêng cho những ai mặc áo cà-sa, nhưng không có kinh điển nào nói như vậy. Tuy nhiên, chúng ta “có thể” nói rằng những ai đã hiến dâng đời mình cho Phật pháp bằng cách xuất gia, được gọi là Tăng sĩ “tương đối.” Nghĩa “tột bực, rốt ráo” của Tăng doàn là người trong tâm linh đã chứng ngộ trọn vẹn bản tánh tuyệt đối, tức tánh Không, bất chấp họ thuộc dân tộc nào, màu da gì, mặc áo gì, hay là những gì khác nữa ; họ là Tăng sĩ thực sự, những người bạn tốt nhất của bạn.

Bạn thường cảm thấy cô đơn, nhưng bạn đừng nên như vậy. Những người bạn Tăng sĩ vĩnh cửu và chân thật của bạn lúc nào cũng ở bên bạn, đó là các daka và dakini, chư Bồ tát có gương mặt hiền lành hay hung dữ và các Tăng đoàn trong ba thừa. Họ có thể dẫn dắt bạn ra khỏi mê lầm, sân hận của thế gian. Khi bạn nhận ra điều này, bạn sẽ không bao giờ cảm thấy cô đơn hay nhớ tiếc bạn bè. Hãy thiền định, hãy đi vào trong : đó là nơi mà các người bạn đích thực đang hiện diện.

 

Back

 

Phước Huệ Temple
Address: 365 Victoria St. Wetherill Park, NSW 2164
Phone: (02) 9725 2324, Fax: (02) 9725 5385, Email: phuochue@phuochue.org